TƯ VẤN

Bệnh vẩy nến

(proriasis)

 

Bệnh vẩy nến chiếm 5% dân số châu Âu, 2% dân số châu Á và châu Phi, xấp xỉ 10% tổng số các bệnh nhân đến khám ở các Phòng khám da liễu. Bệnh lành tính, thường không ảnh hưởng đến sức khỏe nhưng ảnh hưởng đến thẩm mỹ, tâm lí và những hệ lụy của nó. Nam gặp nhiều hơn nữ, người lớn nhiều hơn trẻ em. Bệnh phát thành từng đợt, có khi tăng giảm theo mùa.

 

Nguyên nhân

Vẩy nến là do rối loạn biệt hóa lành tính của tế bào thượng bì. Cho đến nay vẫn chưa khẳng định rõ ràng nguyên nhân. Nhưng người ta biết chắc chắn 5 yếu tố sau đây làm nên cơ chế sinh bệnh:

1.      Di truyền: Khoảng 30% bệnh nhân có yếu tố gia đình (cha, mẹ, anh chị em ruột hoặc họ hàng trực hệ); 70% các cặp song sinh cùng mắc. Các nghiên cứu chỉ ra các kháng nguyên HLAW6, B13, B17, DR7 liên quan đến vẩy nến da và khớp.

2.      Nhiễm khuẩn: vẩy nến ở trẻ em, vẩy nến thể giọt người ta phân lập được liên cầu khuẩn ở tổn thương và điều trị kháng sinh thì bệnh thuyên giảm.

3.      Stress: Làm bệnh tái phát hoặc đột ngột nặng lên.

4.      Thuốc: Bệnh vẩy nến xuất hiện sau khi sử dụng một số thuốc: chẹn beta kéo dài, lithium, đặc biệt sau khi sử dụng corticoid.

5.      Hiện thượng Kobner: thương tổn mọc lên sau các kích thích cơ học (gãi, chà xát) hoặc các kích thích lí hóa (bệnh nặng nhẹ theo mùa).

 

Triệu chứng lâm sàng

  • Vẩy nến ở da: Trên da có các mảng đỏ ranh giới rõ, phía trên có vẩy dầy màu trắng. Khi chạm vào vùng da bị bệnh thì thấy khô, cứng. Khó xác định hơn nếu thương tổn chỉ có ở đầu do tóc che khuất cho nên cần chú ý: nếu thấy ở đầu tự nhiên thấy gầu nhiều và dầy lên so với trước đây.
  • Vẩy nến ở móng: Móng dầy hoặc có nhiều lỗ nhỏ trên bề mặt móng.
  • Vẩy nến ở khớp: Các khớp bị biến dạng, bệnh nhân khó vận động.
  • Vẩy nến thể mủ: Trên da có các mụn mủ khô và nông.
  • Vẩy nến thể đỏ da toàn thân.

Bệnh này vào mùa khô thì phát triển mạnh hơn, gây đau đớn cho bệnh nhân khi vùng da nhiễm bệnh bị va chạm hoặc có hiện tượng chảy máu chỗ da bị nứt. (đôi khi nhầm với bị nứt nẻ da, cũng hay gặp ở mùa khô. 

Điều trị

Tại chỗ

Dùng các loại mỡ, kem, dung dịch với mục đích bong vẩy, tiêu sừng, hạn chế hình thành nhanh chóng vẩy da như:

  • Mỡ Salicyle 5%, 10%
  • Vitamin D3 và dẫn chất
  • Goudron
  • Nếu bệnh gặp ở bàn chân thì nên luôn luôn đi giày có bít tất khi đi ra ngoài đường, điều này sẽ giúp da chân không cảm thấy khô, đồng thời ngăn ngừa các vết nứt ở da bị nhiễm khuẩn.
  • Hạn chế tiếp xúc với xà phòng.

 

Toàn thân

  • Acitretine
  • Cyclosporin
  • Methotrexate
  • Quang trị liệu: UVB phổ hẹp
  • Quang hóa trị liệu: PUVA

Các thông tin trên đây chỉ mang tính tham khảo mọi người nên tìm đến bác sĩ chuyên môn để có được thông tin chi tiết và cách điều trị thích hợp.

 

Phòng bệnh

  • Tránh căng thẳng (stress)
  • Tránh kì cọ và bóc da (hiện tượng Kobner)
  • Tránh để vùng da bị bệnh tiếp xúc với các chất có tính bazơ cao như xạt phòng, vôi,... vì khi đó vùng da nhiễm bệnh sẽ mở rộng ra.
  • Cẩn thẩn khi dùng thuốc nếu mắc thêm các bệnh về tim mạch.
  • Tránh nhiễm khuẩn: Đặc biệt là nhiễm khuẩn tai, mũi, họng.
  • Tránh rượu: Vì rượu làm bệnh nặng lên và tương kị với các thuốc điều trị.
  • Nên lạc quan yêu đời: do bệnh lành tính và phổ biến, khoa học tiến bộ không ngừng trong việc tìm ra nguyên nhân đích thực của bệnh và hàng năm đều ra đời các thuốc và phương pháp chữa bệnh mới có hiệu quả hơn. Hãy tin tưởng rằng trong tương lai không xa bệnh vẩy nến sẽ có các đột phá mới.
  • Tránh gây trầy xước da ở vùng này, sẽ gây nhiễm trùng, vết thương trở lên đau đớn. Cẩn thận khi sử dụng các loại thuốc bôi dưỡng da, cần phải xem kĩ các loại thuốc bôi dưỡng da có ảnh hưởng đến vùng da bị bệnh hay không.

ThS. BS. Lương Trường Sơn

 


Vảy nến - bệnh khó chữa, dễ tái phát  

Hiện nay, nguyên nhân gây bệnh này vẫn chưa được sáng tỏ. Do đó, việc điều trị còn gặp nhiều khó khăn. Các thuốc đã được sử dụng đều không mang lại hiệu quả bền vững và không ngăn được tái phát.

Ở Việt Nam, vảy nến chiếm 3-5% tổng số bệnh nhân đến khám da liễu. Bệnh biểu hiện thành chấm, vết hoặc mảng nền viêm đỏ, phủ vảy nhiều lớp, dễ bong, màu trắng đục như xà cừ, như nến. Bệnh tiến triển từng đợt, hay tái phát, có khi dai dẳng nhiều năm.

Tùy triệu chứng lâm sàng, các bác sĩ phân vảy nến thành nhiều thể: chấm, giọt, đồng tiền, mảng, đỏ da, mụn mủ, khớp... Thể chấm, giọt, đồng tiền hoặc mảng khu trú thường lành tính, không ảnh hưởng gì lớn đến sức khỏe, chỉ gây ngứa khó chịu, ảnh hưởng đến tâm lý bệnh nhân trong quan hệ gia đình, xã hội. Riêng các thể đỏ da, mụn mủ, viêm da thường kèm theo tổn thương nội tạng, tiên phát hoặc thứ phát, nếu không được điều trị, săn sóc tích cực, đúng đắn thì có thể gây chết người.

Hiện nay, nguyên nhân gây bệnh vẩy nến vẫn chưa được sáng tỏ. Bệnh có thể liên quan tới nhiều yếu tố riêng rẽ hoặc phức hợp tùy từng bệnh nhân: nhiễm lạnh, nhiễm khuẩn (viêm tai mũi họng, cúm), xúc cảm thần kinh đột ngột (stress), rối loạn chuyển hóa đường, mỡ, nội tiết, dị ứng, di truyền...

Vì nguyên nhân chưa rõ ràng nên điều trị còn khó khăn. Có thể nói, hầu như tất cả các loại thuốc đều đã được sử dụng trong điều trị vảy nến. Đó là các thuốc cổ điển (asen, bismut, DDS, novocain, vitamin), hiện đại (kháng sinh, corticoid, thuốc ức chế hoặc tăng cường miễn dịch, cyclosporin, interferon, interleukin...) hoặc thuốc kết hợp các chất chống viêm, bạt sừng, tạo da (kem có salicylic, gudron, corticoid, diprosalic, betnoval...). Chúng chỉ mang lại kết quả không chắc chắn, không bền vững và đại đa số vẫn không thể ngăn ngừa được tái phát.

Phương pháp điều trị vảy nến phổ biến nhất hiện nay là PUVA (uống thuốc psoralen gây cảm ứng ánh sáng, sau đó chiếu tia cực tím sóng dài UVA), hiệu quản có thể đạt 80-90%, nhưng tỷ lệ tái phát 40% hoặc hơn.

Kể cả các phương pháp dùng thuốc toàn thân hiện đại và phương pháp PUVA (đơn thuần hoặc kết hợp với vitamin A) đều có khả năng gây tác dụng phụ, có khi nghiêm trọng: tổn thương gan, thận, máu, rối loạn miễn dịch, ung thư da... Có thể nói, hiện có loại thuốc Tây y nào là lý tưởng, đặc hiệu đối với vảy nến.
Các đơn thuốc Đông y cũng cho kết quả hạn chế (70-75% trường hợp bệnh thể nhẹ được làm sạch tổn thương, không ngăn ngừa được tái phát).

Vì vậy, đối với bệnh nhân vảy nến, nhất là các thể rộng và nặng, thầy thuốc phải động viên họ kiên trì điều trị, thậm chí chấp nhận "chung sống hòa bình với bệnh". Sự lo lắng, bi quan, căng thẳng thần kinh vì nó càng làm bệnh thêm phức tạp, hạn chế kết quả điều trị.

Bệnh nhân cần tránh chà xát mạnh lên tổn thương khi tắm rửa và bôi thuốc (có thể tắm bằng nước ấm, xà phòng, giúp bong vảy). Không tự ý dùng thuốc để đề phòng viêm da, kích ứng. Các thuốc như mỡ salicylic, crisofamic, gudron... nếu bôi rộng có thể gây nhiễm độc. Còn các mỡ corticoid, flucinar, xinala... ban đầu có thể cho kết quả tốt nhưng nếu lạm dụng thì sẽ gây tái phát nặng hơn. Việc bôi corticoid rộng, lâu ngày có thể gây tác dụng phụ giống như khi dùng đường toàn thân (teo da, trứng cá, phị mặt, xốp xương, rối loạn điện giải). Cũng không nên tùy tiện tiêm thuốc này để tránh các tai biến.

Ngoài ra, người bị vảy nến nên tránh dùng các chất kích thích, hạn chế rượu, cà phê, thuốc lá. Việc sinh hoạt điều độ, lao động, thể dục thể thao, tắm biển, tắm nắng thích hợp... rất có lợi cho điều trị.

GS Nguyễn Xuân Hiền, Sức Khỏe & Đời Sống





Facebook
Email: dalieudongdieu@gmail.com
dalieuvietnam@gmail.com

Sơ Đồ Đường Đi

Tìm Kiếm

TỪ ĐIỂN

TÌM HIỂU DA CỦA BẠN

Liên Kết Website



BỘ Y TẾ
BỘ Y TẾ - CỤC Y TẾ DỰ PHÒNG
BV Da liễu trung ương Quy Hòa
BV Da liễu TP.HCM
BV Da liễu Trung Ương
Viện sốt rét - ký sinh trùng - côn trùng TP.HCM
Viện sốt rét - ký sinh trùng - côn trùng Quy Nhơn
Viện sốt rét - ký sinh trùng - côn trùng Trung Ương

Quảng Cáo

Liên Hệ: 0913.407.557
Quảng cáo
Quảng cáo

FACEBOOK

Số Lượng Truy Cập